Lịch sử Khối Thịnh vượng chung Đại Đông Á

Các nước thành viên của Khối thịnh vượng chung Đại Đông Á.

Ý tưởng về một nước Nhật thượng đẳng so với các dân tộc châu Á khác đã được nhen nhóm vào khoảng đầu thế kỉ 19 và dần định hình đến cuối cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai. Học giả Nhật Bản nổi tiếng Fukuzawa Yukichi trong tác phẩm "Vai trò nước Nhật ở châu Á" công bố vào năm 1882 ủng hộ mạnh mẽ cách nhìn về một Đế quốc Nhật Bản và vai trò hiển nhiên là một lãnh đạo của toàn châu Á. Vào đầu thế kỉ 20, một vài học giả dân tộc cực đoan trong đó điển hình là Kita Ikki đã thu hút được nhiều sự chú ý của độc giả khi lần nữa đưa ra nhận định về sứ mệnh của nước Nhật với vai trò đưa châu Á thoát khỏi ách đô hộ của đế quốc thực dân phương Tây, thậm chí bằng khả năng chiến tranh nếu cần. Vào năm 1905, Đế quốc Nhật Bản đánh thắng Đế quốc Nga trong cuộc Chiến tranh Nga-Nhật (1904-1905), chính thức lưu danh vào lịch sử là nước châu Á đầu tiên đánh bại một đế quốc phương Tây, góp phần định hướng cho một vai trò lớn hơn của nước Nhật sau này.

Kinh tế mở một bước ngoặt quan trọng trong quyết định đưa ra các tuyên bố trong thuyết Đại Đông Á lần đầu tiên năm 1940. Nhật Bản có nhu cầu rất lớn về các nguyên liệu thô như dầu ở Đông Ấn hay cao su của Đông Dương nhằm duy trì sản xuất và nhu cầu quân đội đang đồn trú ở Trung Quốc. Động thái nghiêm cấm chuyên chở dầu, nguyên liệu thô và sắt thép đến Nhật Bản của Hoa Kỳ và các quốc gia phương Tây đã thúc đẩy Nhật tìm các nguồn cung thay thế ở các quốc gia châu Á, như vậy bằng cách vận động các quốc gia tham gia vào Khối thịnh vượng chung Đại Đông Á, Nhật có thể duy trì việc sản xuất hàng hóa cho các thị trường xuất khẩu và nhu cầu của một quốc gia đông dân cư.

Ngoài các nguyên nhân trên, tham vọng về một vị trí chính trị quốc tế cũng đã góp phần đưa đến sự ra đời của Khối thịnh vượng chung Đại Đông Á. Từ cuối thể kỉ 19, các nhà hoạch định chính sách của Nhật Bản tin rằng nước Nhật cũng có quyền tương đương các nước đế quốc phương Tây trong việc mở rộng và duy trì thuộc địa của họ ở châu Á. Tin rằng việc làm đó sẽ là điều kiện cơ bản giúp nước Nhật đạt được một vị trí quan trọng hơn trên vũ đài quốc tế và được nhìn nhận như một quốc gia thượng đẳng.

Các đế quốc phương Tây sau đó phản đối các động thái này của Nhật bằng hàng loạt các điều ước bất bình đẳng vốn dĩ gây ra bất bình với người Nhật. Trong các điều khoản được ký kết tại Hội nghị hải quân quốc tế ở Washington (1921 - 1922) buộc Nhật phải duy trì một tỉ lệ lực lượng tàu chiến là 5:3 với Hoa Kỳ và Anh Quốc. Vào năm 1924, Hoa Kỳ thông qua dự luật ngưng tiếp nhận nhập cư từ Nhật Bản.

Các chính trị gia Nhật dùng chủ thuyết này nhằm thuyết phục dân chúng ở cả Nhật và các nước châu Á khác. Họ cũng nói rằng vốn dĩ "châu Á phải dành cho người châu Á", và phải có các hành động cấp bách để giải thoát các nước châu Á thoát khỏi xiềng xích đế quốc phương Tây. Sau này các chính phủ của mỗi quốc gia bị Nhật chiếm đóng đều khẳng định trong tuyên bố thành lập như là một quốc gia độc lập khỏi thế lực phương Tây.

Khối Thịnh vượng chung Đại Đông Á đã được người Nhật ấp ủ từ đầu thế kỉ 19. Hình:Đại Đông Á trên loại tem 10 sen (1sen=1/100yen) phát hành 1942, bị cấm 1947.

Các quốc gia bị Đế quốc Nhật Bản chiếm đóng sau đó nhận ra rằng mọi thứ hoàn toàn khác với lời tuyên truyền trước kia về Khối thịnh vượng chung Đại Đông Á. Chính phủ do Nhật dựng lên nhanh chóng trở thành bù nhìn và chính người Nhật là người quyết định các quyết sách. Dân cư các nước bị Nhật chiếm đóng đã phải chịu nhiều đau khổ do chính sách cai trị của người Nhật. Khối thịnh vượng chung Đại Đông Á chỉ là một dạng khác của một chủ nghĩa đế quốc vốn dĩ được phương Tây áp dụng trước đó không lâu.